Hiệp hội DN Nhỏ và Vừa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là một tổ chức liên kết doanh nghiệp tự nguyện của cộng đồng doanh nghiệp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Phòng vệ thương mại – Sống còn của doanh nghiệp trên thương trường
Ngày 15/6/2018, ngày có hiệu lực của Thông tư 06/2018/TT-BCT quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp phòng vệ thương mại, giúp doanh nghiệp có một sân chơi lành mạnh, công bằng trong hoạt động thương mại, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Nhân dịp này, BRVT-SME có bài phỏng vấn Luật sư Bùi Thanh Yến – Công ty Luật Tư vấn Doanh nghiệp B.T.Y về các vấn đề liên quan đến phòng vệ thương mại.
Thưa Luật sư, biện pháp phòng vệ thương mại là gì?
Các biện pháp phòng vệ thương mại là một phần trong chính sách thương mại của các quốc gia. Các biện pháp này được sử dụng nhằm bảo vệ các ngành công nghiệp nội địa khỏi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
Luật Quản lý ngoại thương tại Điều 67 quy định về “Các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp và biện pháp tự vệ do Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam trong những trường hợp cụ thể.”
Có thể nói rõ hơn là trong khi các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp được sử dụng nhằm hạn chế hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ bên ngoài, thì các biện pháp tự vệ lại được sử dụng nhằm giúp các ngành sản xuất nội địa thêm thời gian để điều chỉnh tăng cường tự do hóa thương mại.
(Luật pháp về phòng vệ thương mại sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất trong nước hội nhập Quốc tế. Trong hình: Bộ KHCN tham quan sản phẩm KHCN của doanh nghiệp Busadco. Ảnh: BRVT-SME)
Các quy định của Luật pháp Việt Nam về biện pháp phòng vệ thương mại từ trước đến nay?
Trước đây để tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế có hiệu quả, hạn chế những tác động không thuận lợi gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước do việc gia tăng bất thường nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam, nước ta đã có 3 Pháp lệnh liên quan đến phòng vệ thương mại là: Pháp lệnh về Tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam 2002; Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 2004; Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 2004.
Hiện nay Việt Nam đã và đang đẩy nhanh tự do hóa thương mại với việc tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và góp phần xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), điều này giúp nền kinh tế phát triển. Song song đó việc hoàn thiện về Luật pháp cũng được đặt ra. Việc ra đời của Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14 được Quốc hội Khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 03 ngày 12 tháng 6 năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, đã thay thế 3 pháp lệnh nêu trên và các nghị định, quyết định, thông tư có liên quan. Luật quy định tại Chương IV về các biện pháp phòng vệ thương mại.
Ngày 15 tháng 01 năm 2018, Nghị định số 10/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại chính thức có hiệu lực. Và vừa qua, Thông tư số 06/2018/TT-BCT ngày 20/4/2018 Quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp phòng vệ thương mại cũng sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 15/6/2018 và trở thành những công cụ pháp lý thay thế các Pháp lệnh về các biện pháp PVTM và các văn bản hướng dẫn thi hành trước đây.
Đề nghị Luật sư cho biết những quy định mới tại Thông tư 06/2018/TT-BCT?
Thông tư số 06/2018/TT-BCT quy định chi tiết về bên liên quan trong vụ việc điều tra; hoạt động cung cấp, thu thập thông tin, tài liệu và bảo mật thông tin, tài liệu; tiếng nói, chữ viết trong quá trình điều tra; quản lý nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại; các trường hợp miễn trừ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan điều tra có đầy đủ căn cứ thực thi biện pháp trên thực tế khi tiến hành điều tra, áp dụng biện pháp PVTM, phù hợp pháp luật quốc tế và thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy việc áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại dẫn đến một số trường hợp miễn trừ nhưng chưa có căn cứ được pháp luật quy định cụ thể. Do đó, Thông tư đã có các quy định chi tiết các trường hợp miễn trừ, quy trình thủ tục nhằm bảo đảm tính minh bạch trong quá trình thực thi trên thực tế.
Cụ thể, có 4 trường hợp hàng hóa được miễn trừ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại:
Thứ nhất, hàng hóa nhập khẩu có đặc điểm khác biệt với hàng hóa tương tự, hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước mà hàng hóa tương tự, hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất bởi ngành sản xuất trong nước đó không thể thay thế được.
Thứ hai, hàng hóa nhập khẩu là sản phẩm đặc biệt của hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước.
Thứ ba, hàng hóa tương tự, hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước không được bán trên thị trường trong nước trong cùng điều kiện thông thường;
Thứ tư, khối lượng hàng hóa tương tự, hàng hóa cạnh tranh trực tiếp sản xuất trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước.
Thời hạn miễn trừ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại được xác định như sau: Đối với các hồ sơ đề nghị miễn trừ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại được cơ quan điều tra tiếp nhận theo khoản 1 điều 13 của Thông tư này, thời hạn miễn trừ tính từ ngày quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời hoặc chính thức hoặc quyết định về kết quả rà soát biện pháp phòng vệ thương mại có hiệu lực đến ngày 31/12 của năm ban hành quyết định miễn trừ.
Đối với các hồ sơ đề nghị miễn trừ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại được cơ quan điều tra tiếp nhận theo khoản 2 điều 13 của Thông tư này, thời hạn miễn trừ là 1 năm tính từ ngày 1/1 đến ngày 31/12 của năm kế tiếp.
Đối với các hồ sơ đề nghị miễn trừ bổ sung được cơ quan điều tra tiếp nhận theo khoản 4 điều 13 của Thông tư này, thời hạn miễn trừ tính từ ngày tiếp nhận hồ sơ miễn trừ đầy đủ và hợp lệ đến ngày 31/12 của năm ban hành quyết định miễn trừ.
Cũng theo Thông tư 06, đối tượng đề nghị miễn trừ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa bị điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại; tổ chức, cá nhân sử dụng hàng hóa bị điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại để sản xuất và các tổ chức, cá nhân khác do Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định.
(Luật sư Bùi Thanh Yến)
Đối với doanh nghiệp, việc thực thi các quy định về biện pháp phòng vệ thương mại liệu còn những cản trở gì?
Khi hàng rào thuế quan giảm xuống thì xu thế các nước gia tăng bảo hộ đối với ngành sản xuất nội địa, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng trở nên “nóng” hơn. Rào cản với mậu dịch tự do đang gia tăng, nếu doanh nghiệp không có biện pháp phòng tránh, nguy cơ sẽ mất trắng thị trường xuất khẩu là có thể xảy ra…
Chính vì vậy đối với các doanh nghiệp nên sử dụng biện pháp phòng vệ như thế nào để khai thác tác dụng của biện pháp phòng vệ thương mại mang lại hiệu quả trong quá trình kinh doanh. Các doanh nghiệp cần chú ý đến các biện pháp này để có thể yêu cầu Chính phủ sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình trước hàng hoá nhập khẩu nước ngoài khi cần thiết. Ngoài sự hiểu biết của doanh nghiệp đối với PVTM như là một công cụ mà doanh nghiệp có thể sử dụng thì vấn đề còn lại là mặc dù có thể đã nghĩ đến, vẫn không có gì đảm bảo rằng doanh nghiệp có đủ năng lực để sử dụng công cụ này.
Tóm lại, khi hàng lang pháp luật đã được xây dựng thì những cản trở đã được tháo gỡ, có chăng là còn từ chính các doanh nghiệp phải chủ động bảo vệ mình trên thị trường để thực sự hội nhập và phát triển./.
Thạc sĩ-Luật sư BÙI THANH YẾN – Giám đốc Công ty Luật Tư vấn Doanh nghiệp B.T.Y